Vi phạm hình sự là hành động có tính chất xâm hại đến các quan hệ pháp luật hình sự. Phát sinh giữa hai bên là Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội liên quan đến việc họ có hành động thực hiện tội phạm, xâm phạm đến các quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ.
Để hiểu rõ hơn về vi phạm hình sự, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về Ví dụ về vi phạm hình sự thông qua bài viết dưới đây.
Khái niệm tội phạm và phân loại tội phạm
Khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Bộ luật hình sự 2017 (“Bộ luật hình sự”). Theo đó, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
Những hành vi này xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Và theo quy định của Bộ luật hình sự thì những hành vi này phải bị xử lý hình sự.
Căn cứ vào tình chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi mà tội phạm được chia thành (i) tội phạm ít nghiêm trọng, (ii) tội phạm nghiêm trọng, (iii) tội phạm rất nghiêm trọng, và (iv) tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong đó, tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 03 năm đến 07 năm tù.
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Các yếu tố cấu thành tội phạm
Một hành vi bị coi là tội phạm khi có đủ các yếu tố sau: (i) Mặt khách quan, (ii) Mặt chủ quan, (iii) Mặt khách thể, và (iv) Mặt chủ thể.
Thứ nhất: Mặt khách thế của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Cá nhân hoặc pháp nhân thương mại đã có hành vi xâm hại, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt đến quan hệ đó.
Thứ hai: Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những yếu tố được thể hiện ra bên ngoài tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương thức phạm tội, phương tiện và công cụ tiến hành tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra.
Trong số các dấu hiệu của mặt khách quan, dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi tội phạm, có thể được thể hiện bằng phương thức hành động hoặc không hành động.
Theo đó, hành vi hành động là việc chủ thể xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ bằng phương thức hành động, như: hành vi giết người, hành vi trộm cắp tài sản….
Hành vi không hành động là việc chủ thể có nghĩa vụ thực hiện một công việc nhất định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác hoặc của nhà nước nhưng đã không thực hiện dẫn đến xảy ra thiệt hại về tài sản, tính mạng cho người khác. Ví dụ như tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng quy hiểm đến tính mạng được quy định tại Điều 132 Bộ luật hình sự.
Thứ ba: Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của tội phạm là những yếu tố biểu hiện bên trong của tội phạm bao gồm thái độ tâm lý, động cơ, mục đích của tội phạm, các yếu tố về lỗi của chủ thể gồm có lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Thứ tư: Chủ thể của tội phạm
Bộ luật hình sự quy định về chủ thể của tội phạm bao gồm: cá nhân và pháp nhân thương mại.
Theo đó, cá nhân bị coi là chủ thể của tội phạm khi có đủ khả năng nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra và và khả năng điều khiển hành vi đó.
Pháp luật hình sự quy định, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà pháp luật có quy định khác.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật hình sự.
Ngoài năng lực chủ thể và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Bộ luật hình sự còn ghi nhận về những dấu hiệu đặc trưng khác đối với những tội phạm cụ thể. Đó là các yếu tố liên quan đến chức vụ, quyền hạn, các dấu hiệu liên quan đến nghề nghiệp, công việc. Ví dụ, chủ thể của tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 230 Bộ luật hình sự là người có chức vụ, quyền hạn.
Đối với pháp nhân thương mại, một cơ quan/tổ chức được gọi là pháp nhân thương mại khi tổ chức đó được thành lập hợp pháp và mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận.
Bộ luật hình sự quy định điều kiện chịu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; vì lợi ích của pháp nhân thương mại; có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;…
Ví dụ về vi phạm hình sự
D (20 tuổi) là công dân cư trú tại khu vực biên giới, lợi dụng việc này, ngày 21/05/2021 B đã mua ma túy với một người đàn ông Trung Quốc (không rõ tên, địa chỉ) với giá 8.000 nhân dân tệ và đem số ma túy về chia nhỏ bán cho các đối tượng nghiện trong xã. Ngày 25/5/2021 lực lượng chức năng đã bắt quả tang đối tượng về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 147,64 gam hêrôin, 13,5 triệu đồng, 1 cân điện tử và 2 điên thoại di động.
Hành vi của D có đủ các yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Cụ thể:
Thứ nhất: Về mặt khách thể
Hành vi của D đã xâm phạm đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và tính mạng, sức khỏe của con người. Đây là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ (Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự).
Thứ hai: Về mặt khách quan
Ma túy là chất tuyệt đối bị cấm sử dụng trong đời sống xã hội. Hành vi mua bán ma túy của D là vi phạm pháp luật. Việc D mua ma túy từ một người Trung Quốc và bán lại cho những người dân trong xã sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và tính mạng, sức khỏe của người dân.
Thứ ba: Về mặt chủ quan
D thực hiện hành phạm tội với lỗi cố ý. D nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Theo đó, D đã lợi dung nhà mình ở khu vực biên giới để mua ma túy với người Trung Quốc và đem về bán lại cho những người trong xã.
Thứ tư: Về chủ thể
Chủ thể của tội phạm là cá nhân, cụ thể là D (20 tuổi).
Hành vi của D đủ các yếu tố cấu thành tội phạm nên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự.
Trên đây là nội dung bài viết Ví dụ về vi phạm hình sự mà chúng tôi gửi đến bạn đọc. Nếu có cần được hỗ trợ tư vấn, vui lòng liên hệ với chúng tôi.