Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và yêu cầu đối với giáo dục đại học hiện nay – Báo Nhân Dân

1. Phát triển nguồn nhân lực: Nhu cầu cấp thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) được quan niệm là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao và tạo ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội (trước hết là hoạt động sản xuất vật chất). Đó là quá trình sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một xã hội văn minh, hiện đại. Ngày nay, công cuộc CNH, HĐH đã trở thành tất yếu của sự phát triển, là làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới cũng như mọi mặt của đời sống xã hội.

Ở Việt Nam, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (7-1994) đã thông qua đường lối CNH, HĐH đất nước. Đảng ta xác định: Trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN, CNH, HĐH là phương tiện, phương thức để đạt đến mục tiêu vì cuộc sống hạnh phúc ngày càng tốt đẹp, vì sự giải phóng và phát triển toàn diện của con người. Hiện nay, CNH, HĐH được xác định là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất của toàn Đảng, toàn dân; là con đường duy nhất để “rút ngắn” quá trình phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước trên thế giới. Là một nước còn nghèo với kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, CNH, HĐH đối với Việt Nam là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.

Theo lý luận về “Hệ thống sản xuất lấy con người làm trung tâm” thì nguồn lao động luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội[1]. Nguồn lực quý báu, quan trọng nhất, quyết định sự phát triển và phồn thịnh của các quốc gia, cộng đồng trên thế giới không còn là nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà là “nguồn nhân lực” với phẩm chất, tầm nhìn, kiến thức, kỹ năng cao. Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực bao gồm cả số lượng và chất lượng dân số, do đó phát triển nguồn nhân lực thực chất là liên quan tới cả hai khía cạnh trên. Tuy nhiên, hiện nay đối với thế giới và đặc biệt là đối với các nước đang phát triển thì vấn đề nổi lên gay gắt là chất lượng dân số.

Do đó, các nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực trong những thập niên gần đây chủ yếu tập trung vào nguồn nhân lực, tức chủ yếu tập trung vào vốn nhân lực (được hiểu là lực lượng lao động có kỹ năng) [2]. Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC) được xem là nguồn lực chính, nhân tố quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế -xã hội và quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác[3]. Tài nguyên trên thế giới ngày càng cạn kiệt, còn tri thức và sức sáng tạo của con người là vô hạn. Con người được vũ trang bằng những tri thức hiện đại sẽ là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế -xã hội, là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự phát triển thần kì. Tri thức – sản phẩm trí tuệ của con người được xem là nguồn tài nguyên lớn và quý báu nhất của nền kinh tế tri thức, là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững và là yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của quốc gia. Hiền tài, nhân tài và lao động trí thức đã trở thành một lực lượng sản xuất mới, giữ vai trò quyết định hơn cả vốn và tài nguyên.

Nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, nhà tương lai Mỹ Avill Toffer cho rằng “tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên” [4]. Vì vậy, con người được xem là một “tài nguyên đặc biệt” và nguồn lực của sự phát triển và “phát triển tài nguyên con người” (Human resources development) trở thành vấn đề quan trọng nhất trong phát triển, vừa có tính chất “mục đích” vừa có tính chất “phương tiện”. Theo GS. Thurow [5] thì “sự khác biệt nhất trong cạnh tranh kinh tế trước đây và thời đại ngày nay là ở chỗ con người đang tạo ra lợi thế cạnh tranh. Vũ khí cạnh tranh quyết định ở trong thế kỷ XXI là giáo dục và kỹ năng của người lao động” [6]. Truyền thống Việt Nam cũng đã xác định “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”: từ thực tiễn diễn ra trong lịch sử đương thời, Thân Nhân Trung đã có câu nói bất hủ khi viết bài ký Đề tên Tiến sĩ Khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại bảo thứ 3 (1442): “…Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết…”. Lời văn bất hủ của Danh sĩ Thân Nhân Trung từ hơn nửa thiên niên kỷ trước vẫn còn giá trị to lớn với chúng ta hôm nay và mai sau.

Trong xu thế phát triển nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và mở rộng giao lưu quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là NNLCLC ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: (1) Áp dụng công nghệ mới, (2) Phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và (3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là NNLCLC – tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn – vốn con người, vốn nhân lực” (the human capital). Giữa nguồn lực con người (NLCN), vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, KHCN…có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia.

So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế – xã hội [7]. Lực lượng nhà khoa học và quản lý trình độ cao là nguồn tài nguyên nhân lực chủ chốt cho phát triển kinh tế tri thức và cạnh tranh mỗi quốc gia.

Chiến lược CNH, HĐH đất nước cần dựa vào sự dẫn dắt, thực hiện của các nhà khoa học và quản lý trình độ cao. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có NNLCLC, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, môi trường chính trị – xã hội ổn định. Mặt khác, các quốc gia có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ thông qua con đường chuyển giao, nhập khẩu nhưng không thể nhập khẩu hay vay mượn được khả năng sáng tạo của con người. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới (đặc biệt là các quốc gia phát triển và mới nổi) đều chú trọng thu hút, đào tạo, đãi ngộ nhân lực khoa học và quản lý trình độ cao.

Là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nên phát triển nguồn nhân lực được xem là một yếu tố có tính chiến lược then chốt nhất cho phát triển kinh tế – xã hội nói chung và CNH, HĐH nói riêng. Quá trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp là do quy định của nhiều yếu tố, trong đó, trước hết và chủ yếu tùy thuộc vào năng lực của con người, vào chất lượng của NLCN. Phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực và đầu tư, chăm lo cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững, bảo đảm sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia và là chìa khóa của sự phát triển bền vững.

Nhật Bản là một thí dụ: sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, nước Nhật bị tàn phá, khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, kinh tế kiệt quệ, khoảng 80 vạn người dân thiếu gạo (ăn khoai, sắn…). Nhưng sau đó kinh tế Nhật Bản phục hồi nhanh chóng (1945 -1654) và phát triển với tốc độ thần kỳ (1954 -1973), trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới sau Mỹ. Đó chính là kết quả của việc phát huy tối đa vai trò nguồn lực trong sự phát triển đất nước. Bài học kinh nghiệm rút ra từ những thành công trong quá trình phát triển của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs) ở châu Á cho thấy: người ta không chỉ chú trọng ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới hoặc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, mà vấn đề then chốt hơn cả là biết khơi dậy và phát huy năng lực trí tuệ và sức sáng tạo to lớn của con người.

Vì vậy, để thực hiện thành công CNH, HĐH và hội nhập quốc tế (HNQT), cần phát triển nhanh NNLCLC, nhất là nguồn nhân lực đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Đào tạo và phát triển NNLCLC đang là một trong những vấn đề trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia, trong đó giáo dục và đào tạo đóng vai trò chủ yếu. Phát triển NNLCLC có nghĩa là xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng công trình sư, kỹ sư đầu ngành, công nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn – kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; xây dựng đội ngũ doanh nhân quản lý doanh nghiệp, có khả năng tổ chức, khả năng cạnh tranh; xây dựng hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ; xây dựng sự nghiệp giáo dục tiên tiến, hiện đại và một xã hội học tập toàn diện để tạo NNLCLC. Trọng tâm của đào tạo nhân lực phục vụ CNH, HĐH trước mắt là đào tạo khả năng về công nghệ, là “áp dụng công nghệ để tạo nên sự giàu có” kể cả “quản lý công nghệ”.

2. Giáo dục đại học trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng, vào bất kỳ thời đại nào, ở bất cứ quốc gia nào muốn hưng thịnh đều phải lấy giáo dục làm trọng. Giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế -xã hội. Thế kỷ XXI là thế kỷ của tri thức, thông tin và giáo dục là chìa khóa để bước vào lâu đài tri thức vô tận của con người. Nhận thức vai trò quan trọng của giáo dục trong việc tạo NNLCLC, các nước đều tăng cường sức mạnh cho giáo dục để tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Ở các nước phát triển, mô hình đại học nghiên cứu đã phát triển đến mức độ cao, gắn với hoạt động sáng nghiệp. Đại học vừa là các đầu tàu về tri thức, vừa là nền tảng văn hóa của xã hội; và đào tạo, phát triển NNLCLC thông qua giáo dục đại học (GDDH) được xem là quy luật tất yếu trong thời đại ngày nay.

GDDH có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm chỉ ra rằng giáo dục đào tạo và CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với nhau; thậm chí giáo dục đào tạo là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ và thành công của sự nghiệp CNH, HĐH. “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[8]. Thực tiễn những nước đi trước về CNH, HĐH cũng chỉ ra rằng: xã hội muốn đạt tới trình độ phát triển mới và cao hơn thì tất yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về mặt giáo dục.

Giáo dục và đào tạo vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối với sự thành công của CNH, HĐH và CNH, HĐH với những thành tựu của nó lại tác động trở lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hóa giáo dục và đào tạo [9]. Vì vậy, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những nội dung quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và CNH, HĐH tạo điều kiện cho giáo dục và đào tạo phát triển theo hướng hiện đại. Là động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, đầu tư cho giáo dục phải được xem là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển; đồng thời, giáo dục phải đi trước, phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế -xã hội đất nước.

Đào tạo NLCN, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ, lực lượng trí thức có đủ phẩm chất và tài năng bắt kịp trình độ phát triển của thế giới là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn, là vấn đề có tầm chiến lược và quyết định tương lai của đất nước. Vì vậy, công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá, tăng tốc mạnh mẽ trong thời gian tới. Thomas J.Vallely cho rằng, giáo dục là mệnh lệnh kinh tế và chính trị ở Việt Nam: Ở “mệnh lệnh kinh tế” giáo dục là một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế và giúp giải thích tại sao các nền kinh tế này duy trì được tốc độ tăng trưởng cao khi hầu hết các nước đang phát triển tăng trưởng chậm lại. Ở “mệnh lệnh chính trị”, giáo dục là khát vọng của con người Việt Nam[10]. Nhiệm vụ trực tiếp là phải tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ.

Ngày nay, GDĐH là con đường tất yếu góp phần quyết định vào phát triển đất nước. Trường đại học được giao chức năng quan trọng là sáng tạo, chuyển giao tri thức, bảo tồn và phát triển văn hóa, đào tạo nguồn nhân lực cao cho xã hội; trường đại học luôn mang trên mình những nhiệm vụ cao cả: (1) Là nơi truyền đạt kiến thức khoa học, tri thức, văn hóa của loài người, những tri thức của xã hội, đất nước; không chỉ truyền đạt tri thức của quá khứ mà còn là tri thức của hiện tại và cả tương lai. Tri thức do chính trường đại học sáng tạo, phát triển và bổ sung. (2) Là nơi dạy cho sinh viên biết tư duy khoa học, biết phản biện, luôn khám phá, và đi đến tận cùng, mãi mãi của cái huyền bí khám phá khoa học. (3) Là nơi tạo môi trường và giúp người sinh viên tựrèn luyện để trở thành những công dân trí thức, nhận thức một cách rõ ràng trách nhiệm trước bản thân, gia đình, xã hội và đất nước (sentayho.com.vn Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐHQG-HCM).

Là trung tâm khoa học và đào tạo, nơi lưu trữ, sáng tạo và truyền bá tri thức, nơi đào tạo ra không chỉ là những người công dân, những người lao động có tri thức mà còn có nhiệm vụ cao hơn, là nơi chuẩn bị đội ngũ lãnh đạo tương lai cho đất nước. Là một lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao để cung cấp cho xã hội, GDDH được ưu tiên ở hầu hết các nước trên thế giới. Vươn tới những chuẩn mực quốc tế trong đào tạo và NCKH, đồng thời đào tạo NNLCLC để chủ động HNQT và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là sứ mệnh, là trách nhiệm lớn lao của các trường đại học. Vì vậy, các quốc gia phát triển nhanh đều có các trường trụ cột đại học, các chính phủ đều chú trọng đầu tư phát triển của GDĐH.

Đặc biệt, trong các loại trường đại học (nghiên cứu, ứng dụng và thực hành) thì trường đại học nghiên cứu có vai trò đặc biệt trong việc duy trì sự ưu tú, tạo ra những kiến thức mới, ý tưởng mới, sáng tạo mới nhằm dẫn dắt tiến bộ xã hội cũng như thúc đẩy sự giàu mạnh của quốc gia. Các trường đại học “tinh hoa mới” là cách nói khác của các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của mỗi quốc gia, đào tạo nguồn nhân lực tài năng, chất lượng cao, nghiên cứu khoa học đỉnh cao, đóng vai trò hoa tiêu, dẫn đầu, tiên phong và trụ cột của nền GDĐH của đất nước hội nhập và cạnh tranh, phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Để thực hiện được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Việt Nam đang tiếp tục đổi mới sâu rộng và đồng bộ hơn; tập trung ưu tiên tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững, đẩy mạnh CNH, HĐH, chủ động và tích cực HNQT. Tình hình trên đặt ra cho ngành giáo dục và đào tạo những yêu cầu mới, vẻ vang nhưng cũng nặng nề hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, phát triển NNLCLC và nền khoa học công nghệ tiên tiến. Hiện nay, nước ta đang triển khai thực hiện Cương lĩnh của Đảng, các Nghị quyết số 20/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và Nghị quyết số 29/NQ-TW về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo. Việc Đảng và Nhà nước đã chọn việc phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là NNLCLC gắn kết với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một trong ba khâu đột phá chiến lược đã giao trách nhiệm và là cơ hội phát triển cho các trường đại học nghiên cứu cũng như hệ thống GDĐH Việt Nam.

Sơ đồ quy trình đào tạo và quản lý đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các trường đại học[11]

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013).

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ (Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012).

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).

4. Nguyễn Phương Nga – Nguyễn Quý Thanh (đồng chủ biên), Trịnh Ngọc Thạch, Lê Đức Ngọc, Nguyễn Công Khanh, Mai Thị Quỳnh Lan: Giáo dục đại học: Một thành tố của chất lượng, Nxb. ĐHQGHN, 2007.

5. Thomas J.Vallely: Hai “mệnh lệnh” của giáo dục đại học sentayho.com.vn/vn/giao-duc/167073/hai-menh-lenh-cua-giao-duc-dai-hoc.html

[1] William Petty (Nhà kinh tế học người Anh) cho rằng: “Lao động là cha, đất đai là mẹ” của mọi của cải vật chất. C.Mác cho rằng: con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất.
[2] Đôi khi các khái niệm “vốn nhân lực”, “nguồn vốn nhân lực” và “nhân lực” được dùng thay thế cho nhau. Phát triển nguồn nhân lực là một khái niệm rộng, liên quan đến quá trình nâng cao và khuyến khích đóng góp năng lực của người lao động cho quá trình sản xuất và định hướng chủ yếu của phát triển nguồn nhân lực là nâng cao trình độ chuyên môn và sử dụng hiệu quả nguồn lực đó.
[3] Để chỉ NNLCLC, các tạp chí nghiên cứu về giáo dục, đào tạo và kinh tế thường sử dụng khái niệm lao động có kỹ năng cao (High skill labours) hoặc lao động chất lượng cao (High quality labours).
[4] Avill Toffer: Power Shift (Thăng trầm quyền lực)
[5] Lester Thurow Carl (sinh ngày 7-5-1938 tại Livingston, Montana): là giáo sư Kinh tế học người Mỹ, cựu hiệu trưởng của MIT Sloan School of Management, tác giả của nhiều cuốn sách về chủ đề kinh tế.
[6] Nguyễn Phương Nga – Nguyễn Quý Thanh (đồng chủ biên), Trịnh Ngọc Thạch, Lê Đức Ngọc, Nguyễn Công Khanh, Mai Thị Quỳnh Lan: Giáo dục đại học: Một thành tố của chất lượng, Nxb. ĐHQGHN, 2007, tr.18.
[7] Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện: (1) Có đường lối kinh tế đúng đắn. (2) Biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó. (3) Có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo. (4) Có đội ngũ các nhà doanh nhân giỏi.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
[9] Như: các trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho việc dạy học giúp cho giáo dục và đào tạo tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng chính yêu cầu của CNH, HĐH.
[10]. Thomas J.Vallely: Hai “mệnh lệnh” của giáo dục đại học
[11] Nguyễn Phương Nga – Nguyễn Quý Thanh (đồng chủ biên), Trịnh Ngọc Thạch, Lê Đức Ngọc, Nguyễn Công Khanh, Mai Thị Quỳnh Lan: Giáo dục đại học: Một thành tố của chất lượng, Nxb. ĐHQGHN, 2007, tr.66.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *