Thần hộ pháp là gì?
Thần hộ pháp là bảo hộ, hộ trì Chánh pháp. Sách cũ ghi lại, xưa kia Đức Phật từng phái 4 vị Đại Thanh Văn, 16 vị La Hán đến để hộ trì Phật pháp. Bên cạnh đó còn có các vị Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, thập nhị thần tướng, 28 bộ chúng, 13 phiên thần, 36 thần vương, 18 thiện thần chống già lam, Long vương,…. Những vị thần này đều được gọi là thần hộ pháp. Họ có nhiệm vụ bảo hộ chúng sanh, độ đời, tiêu trừ mọi tai họa chốn nhân gian, hàng yêu bắt quái,… để tâm trong sạch mà hướng Phật.
Tuy nhiên trong các ngôi chùa Việt, một phần do kinh phí, một phần do diện tích khuôn viên chùa mà hầu như không bao giờ có đầy đủ tất cả những vị tướng này. Chủ yếu chỉ tồn tại 4 loại hệ tượng như: Vi Đà Bồ-tát và Tiêu Diện Đại sĩ; Khuyến thiện – Trừng ác; Tứ Thiên Vương và Bát bộ Kim cương.
Các hệ tượng Hộ Pháp trong các ngôi chùa Việt
Có rất nhiều các vị thần hộ pháp, song dưới đây là những vị thần hộ pháp xuất hiện nhiều nhất trong các ngôi chùa Việt hiện nay.
Vi Đà và Tiêu Diện Đại sĩ
Vi Đà còn gọi là Vi Đà thiên, vốn là một vị thần của Bà La Môn giáo. Vi Đà nguyên là một vị thần chiến đấu, có 6 đầu và 12 tay. Tay cầm cung tên, cưỡi trên lưng khổng tước. Phật giáo Đại thừa biến vị thần này thành vị thần ủng hộ chốn già lam.
Tương truyền khi Đức Phật nhập Niết bàn, có một con quỷ đến cướp mất một chiếc răng của Phật. Vi Đà thấy vậy liền cấp tốc đuổi theo để lấy về. Trong các ngôi chùa, vị thần này có hình dạng thân mang áp giáp, chắp tay cầm bảo kiếm rất uy lực.
Còn Tiêu Diện Đại Sĩ (hay còn được gọi là Tiêu Diện Đại Quỷ, là vua của loài ngạ quỷ) thì có khuôn mặt đỏ như lửa. Ngài là một vị thần nổi tiếng của Phật giáo. Người ta cũng có rằng vị thần này vốn là hóa thân quả Quan thế âm bồ tát, với ý nghĩa là dùng hình tượng của cái ác để chế ngự cái ác. Tà ma ngoại đạo gặp ngài thì hoảng sợ mà chạy ra phía có ánh sáng. Khi đó Đức Phật sẽ dùng ánh sáng của mình mà cứu độ và cảm hóa.
Thông thường vào mỗi dịp lễ tết, người ta thường đến chùa để lễ bái vị thần hộ pháp này để cầu mong cho vong linh của những người thân quá cố có thể được trở về thọ thực cùng với gia đình.
Khuyến thiện và Trừng ác
Trong các ngôi chùa hiện nay, hai vị thần hộ pháp là Khuyến thiện và Trừng ác thường được đặt ở tiền đường. Tượng được tạc với thân hình to lớn, vạm vỡ, trang phục như các võ tướng, đầu đội mũ trụ, mặc áo giáp, ngồi trên sư tử, tư thế uy nghiêm, tay cầm viên ngọc thiện tâm, có sẵn khí giới để bảo vệ đạo pháp.
Tượng Khuyến thiện thường được tô mặt trắng, nét mặt thanh thản, đặt bên trái của bàn thờ Phật. Còn tượng Trừng ác thường được tô mặt đỏ, có nét mặt hung dữ, lăm lăm vũ khí để trừng trị kẻ ác. Tượng của ngài được đặt bên phải của bàn thờ Phật.
Sự tích về hai vị này vốn xuất phát từ Ấn Độ cổ xưa. Ở nước Ca bỉ na có hai anh em hoàng tử nhưng tính cách lại trái ngược nhau. Người em là Ma pha la tính tình độc ác, tham lam lại ham chơi. Người anh là La đắc lại rất hiền lành, thương xót chúng sinh, có tấm lòng từ bi bác ái. Ông thường đem hết ngân khố quốc gia ra để phát cho người nghèo. Đến mức kho tàng rỗng tuếch, công quỹ quốc gia khánh kiệt.
Vua cha biết được cũng không nỡ trách mắc La đắc, ông chỉ nhẹ nhàng chỉ bảo: “Muốn nước hưng thịnh, các con hãy xuống Long cung xin ngọc Ma-ni bảo châu, ước gì được nấy”. Nghe thấy vậy, La đắc xuống biển tìm bằng được ngọc lên bờ. Người em trai Ma pha la nổi tính tham lam độc ác, đã đóng giả làm cướp rồi đâm anh trai mù mắt, chiếm lấy ngọc quý rồi về dâng vua cha.
Nhưng kể từ đó, Ma ni bảo châu lại trở thành một viên đá bình thường, không còn phép màu, không tỏa ra ánh hào quang như trước. Về phần La đắc, mắt không còn nhìn thấy đường đi, ông lần mò dọc theo bờ biển tìm đến nước Ba-la-lật để xin trông coi vườn thượng uyển. Vốn có tình thương với muôn loài, La đắc để cho chim thú ăn hết hoa thơm quả ngọt trong vườn cấm.
Chuyện tới tai nhà vua, vua đem La đắc đi xử tội. Trước khi bị hành hình, La đắc đã kể lại cuộc đời của mình. Vua nghi ngờ bèn hỏi: “Ngươi lấy gì để làm bằng?”. La đắc tự tin đáp lại rằng: “Nếu đúng, mắt tôi sẽ sáng lại”. Vừa dứt lời, hai mắt của ông bỗng bừng sáng, cũng lúc ấy ở nước Ca bỉ na viên ngọc Ma-ni cũng rực rỡ sắc màu.
La đắc trở về nước, ông tha tội cho người em trai của mình. Cả hai cùng tu thành chính quả, cưỡi sư tử, mặc áo giáp bay về trời. Hai ông được tạc tượng thờ ở trong chùa với nhiệm vụ bảo vệ Phật pháp.
Tứ đại thiên vương
Trong Phật giáo, Tứ Đại Thiên Vương là bốn vị Thiên tướng thủ hộ Phật pháp, thuộc chư Thiên bộ trong Nhị thập thiên hoặc Thập nhị thiên của Phật giáo. Tương truyền, Tứ đại thiên vương cư trụ trên núi Tu di, trấn giữ ở 4 phương, cai quản hộ trì tứ châu, bao gồm: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lô Châu.
Trong các đền ngôi chùa hiện nay, tượng của Tứ đại thiên vương được thờ trong Thiên vương diện và đặc sau sơn môn hoặc 4 góc của cửa tháp. Hình tướng của Tứ đại thiên vương được tác như sau:
Đông phương trì quốc thiên hộ trì đất nước, bảo hộ chúng sanh, cư trú ở phía Đông núi Tudi. Ngài mặc áo giáp trụ, tay cầm đàn tỳ bà, nét mặt phẫn nộ. Ngài là biểu tượng của lòng từ bi, dùng âm nhạc để cảm hóa chúng sanh quy y Tam bảo. Chủ quản Đông phương Phất-đề-bà châu.
Nam phương tăng trưởng thiên có năng lực hộ trì chúng sinh tăng trưởng thiện căn, cư ngụ ở phía Nam núi Tudi. Ngài mặc áo giáp, tay cầm bảo kiếm, có nét mặt giận dữ, bảo hộ Phật pháp không cho tà ác xâm phạm. Chủ quản Nam phương Diêm-phù-đề châu.
Tây phương quảng mục thiên có thể dùng Thiên nhãn thanh tịnh quán sát thế giới hộ trì chúng sanh, cư trú phía Tây núi Tudi. Ngài mặc áo giáp trụ, tay quấn con rắn, nét mặt giận dữ. Chủ quản Tây phương Anh-da-ni châu.
Bắc phương đa văn thiên từng bảo hộ đạo tràng của Như Lai, nên được nghe Như Lai thuyết pháp nhiều, cư trụ ở phía Bắc núi Tudi. Ngài có nét mặt phẫn nộ, tay cầm bảo tháp, biểu thị phước đức đa văn, chế phục chúng ma, có nhiệm vụ bảo hộ tài bảo của chúng sanh. Chủ quản Bắc phương Úc đơn việt châu.
Tứ Đại Thiên Vương cùng Phạm Thiên và Thiên chúng thuộc cõi trời Dục giới, là những vị thần bảo hộ Phật pháp, cũng như hộ trì chúng sanh tu tập thiện pháp, tồi phá trừng phạt những kẻ tà ác bất thiện xâm hại Phật pháp.
Bát bộ Kim cương
Bát bộ Kim cương là 8 vị thần bảo hộ của Phật pháp. Kim cương biểu thị cho tâm hồn trong sáng, kiên định, khó bị hủy hoại trong tu hành nên gọi là Kim cương hộ pháp. Mặc áo tùy hình chống lại ba mũi tên độc tham, sân, si.
Theo kinh Phóng quang Bát nhã thì bất cứ ai tu hạnh Bồ tát trên đường thành Phật cũng sẽ được thần Kim cương giữ gìn bảo vệ. Tượng Bát bộ Kim cương trong các ngôi chùa Việt đều được tạc với hình ảnh tay cầm các binh khí như gươm, chùy, việt phủ.. Tám vị thần đó có tên là: Thanh Trừ Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích Thanh Hỏa, Định Trừ Tai, Tử Hiền Thần, Đại Thần Lực…
Về cơ bản, các hệ tượng Hộ pháp trong các ngôi chùa Việt thường chia thành 2 loại là thiện thần và ác thần. Thiện là khuyến khích chúng sinh làm điều thiện, ác là trừng trị cái ác, cảm hóa cái ác đi đến cái thiện. Các Hộ pháp có nhiệm vụ hộ trì Phật pháp không cho cái xấu trà trộn vào, giúp con người thanh tĩnh, từ bi, một lòng hướng Phật.
Các tượng thường được tác rất lớn với các tư thế nghiêm nghị, mạnh mẽ, thể hiện sức mạnh giữa trời đất. Các vị thần hộ pháp đầu đội mũ, mình mặc giáp, tay cầm theo binh khí để ngăn ngừa tam độc, nhờ đó mà giữ được tâm trong sáng. Các tượng thường được đặt trên lưng con lân, tượng trưng cho sức mạnh trí tuệ. Vì chỉ có trí tuệ sáng suốt và cái tâm thanh tịnh thì mới loại trừ được ác nghiệp. Đó cũng là chân lý muôn đời trong đạo Phật để đi tìm con đường giải thoát, mang đến hạnh phúc vĩnh viễn cho chúng sinh.