Tại An Giang, Bộ Nông nghiệp và PTNT vừa tổ chức hội nghị sơ kết phong trào xây dựng mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” trong sản xuất lúa ở Nam bộ.
Mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” là mô hình liên kết 4 nhà thâm canh lúa hiệu quả, bền vững theo hướng GAP, tiến tới xây dựng vùng nguyên liệu lúa hàng hóa xuất khẩu chất lượng cao, được xây dựng theo chủ trương của Bộ Nông nghiệp và PTNT tại hầu hết các tỉnh thành Nam bộ từ tháng 3 năm 2011 với hơn 7800 ha đất canh tác, 6400 hộ nông dân tham gia; nhưng thực chất nó đã được xây dựng thí điểm tại rất nhiều điểm trình diễn, với quy mô từ vài ha đến vài chục ha ở các tỉnh: Long An, Tây Ninh, Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang…từ vụ hè thu 2008-2009.
Hình thức liên kết rất đa dạng, theo điều kiện thực tế và sáng tạo của từng địa phương; nhưng cơ bản đã đạt được các bước: cung ứng lúa giống xác nhận (một đến hai loại); cung ứng phân bón, thuốc BVTV (từ doanh nghiệp đến thẳng người nông dân, không qua trung gian); hợp tác với doanh nghiệp thu mua lúa hoặc doanh nghiệp đứng ra tổ chức khép kín các khâu, từ cung ứng đầu vào đến bao tiêu đầu ra cho nông dân (Cty CP BVTV An Giang); tập hợp nông dân tham gia mô hình theo hình thức phân chia các nhóm sản xuất, có người phụ trách, cứ 2 nhóm sản xuất có một cán bộ kỹ thuật của tỉnh (hoặc huyện) trực tiếp hướng dẫn, nhắc nhở. Có tỉnh tổ chức HTX, hoặc tổ hợp tác sản xuất. Nhà nước hỗ trợ nông dân tiền chênh lệch khi mua giống lúa xác nhận (so với lúa thường), định kỳ tập huấn kỹ thuật cho nông dân (3-4 lần/vụ), hỗ trợ 30 đến 50% tiền đầu tư máy móc, công cụ sạ hàng, lò sấy, thùng pha thuốc BVTV (tỉnh Long An). Công ty CP phân bón Bình Điền bán phân theo giá gốc, hỗ trợ chi phí vận chuyển và cho nông dân trả chậm sau 4 tháng (tức bán phân đầu vụ nhưng khi nông dân thu hoạch lúa xong mới thu tiền). Các công ty: BVTV An Giang, Gien Traco, Angimex, Công ty lương thực Long An… cung ứng giống với lãi suất 0%, thu mua lúa với giá cao hơn thị trường từ 150 đến 300 đồng/kg …
Khẳng định những cái được của mô hình, ông Phạm Văn Dư- phó cục trưởng Cục Trồng trọt – Bộ NN&PTNT nói: “Trước nay trong sản xuất nông nghiệp thường mạnh ai nấy làm. Anh doanh nghiệp thì chỉ biết bán hàng, thu tiền ngay chứ không dám chịu trách nhiệm đến cùng (ít nhất là sau thu hoạch) với người nông dân. Các nhà khoa học thì thường đứng ở đâu đó rất xa, chỉ đạo chung chung, sách vở. Nhà quản lý ngại “ôm rơm rặm bụng”. Ngành vật tư nông nghiệp bị xé lẻ, qua nhiều cấp, nhiều khâu trung gian phân phối, làm đội giá thành khi tới tay nông dân. Nhà nông cứ theo kinh nghiệm cổ truyền mà làm: tự ý để giống, tự ý gieo cấy và bón phân, xịt thuốc… Sự manh mún, nhỏ lẻ làm giảm khả năng xử lý những gãy vỡ do thiên tai, dịch bệnh. Vì vậy tham gia mô hình, được hưởng lợi nhiều nhất là người nông dân. Khi đã xây dựng được thương hiệu thì giá trị hạt gạo sẽ tăng, hình thành nhận thức sản xuất lúa theo đơn đặt hàng, theo nhu cầu tiêu thụ, xuất khẩu. Thực tế hiện nay chất lượng gạo xuất khẩu của ta đã cao hơn gạo Thái Lan”. Khi nông nghiệp phát triển thêm bước nữa, nói như thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Bùi Bá Bổng – người nông dân sẽ thực hiện 3 không: không cấy lúa (mà gieo sạ), không gặt đập bằng tay (mà bằng máy liên hợp), không phơi lúa (mà sấy)… thì ngày công lao động sẽ giảm đi, người nông dân sẽ có thêm điều kiện để nâng cao kiến thức về mọi mặt. Đấy sẽ là một trong những điều kiện góp phần xây dựng nông thôn mới.”
Rất ủng hộ chương trình và những việc đã làm của mô hình, GS Nguyễn Thơ – một chuyên gia nông nghiệp nói : “Đây là một tiến bộ, một cách làm tốt cho hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ của ta, nhưng kết quả cũng mới chỉ là những chấm phá, ngành nông nghiệp cần phải làm thêm nhiều nữa. Phải làm sao cho chuỗi liên kết có được chất kết dính, như chất keo gắn chặt các thành phần lại với nhau. Tùy từng vùng sản xuất mà có người đầu tàu, làm hạt nhân liên kết, tập hợp “các nhà” lại, nhưng phải có tính nhân văn. Phải minh bạch, công khai lợi ích giữa các nhà. Phải xây dựng được hệ thống thông tin rõ ràng, nhanh nhạy cho các nhà. Làm sao cho các hạt nhân trong chuỗi này không “đồng sàng dị mộng”.
“Mô hình sẽ bền vững, cần và sẽ được nhân rộng”- Đó là khẳng định của ông Huỳnh Thế Năng, phó chủ tịch tỉnh An Giang. Theo ông Năng mô hình luôn tạo ra được động lực cho các nhà bởi lợi ích. Chính lợi ích sẽ gắn kết các nhà. Và khi mà mọi nhà trong mô hình đều có lợi ích thiết thực thì đương nhiên mô hình sẽ tồn tại và phát triển.
Tuy vậy, để cho mô hình nhân rộng một cách vững chắc, như định hướng của Bộ, đến hết năm 2012 có từ 40 đến 80.000 ha, năm 2013 đạt 100 đến 200.000 ha, tiến tới vùng sản xuất lúa nguyên liệu một triệu ha vào năm 2015 thì đòi hỏi phải có sự “vào cuộc” tích cực của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp thu mua lúa. Nếu 123 doanh nghiệp hiện có của Hiệp hội Lương thực Việt Nam cùng “xắn tay áo” lên xây dựng cho mình một vùng nguyên liệu từ một ngàn đến vài ngàn ha, thì cả nước đã có vùng nguyên liệu ổn định từ 200 đến 500 ngàn ha rồi. Ông Bùi Bá Bổng- Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT kết luận: “Thực tế đã hình thành các điều kiện để có hướng xây dựng những cánh đồng mẫu lớn, như: Gieo sạ đồng loạt né rầy; thực hiện gói kỹ thuật 3 giảm 3 tăng,1 phải 5 giảm; thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp ngày càng tăng, những cụm xay sát, chế biến lúa gạo của doanh nghiệp mọc lên ngày càng nhiều, ngay tại vùng nguyên liệu. (Như Công ty CP BVTV An Giang đang khởi công xây dựng 3 nhà máy sấy lúa tại An Giang, Đồng Tháp, Long An với tổng công suất 700.000 tấn/năm. Ông Huỳnh Văn Thòn Tổng giám đốc Công ty nói: “Cái khó là do gieo sạ tập trung, nên thu hoạch đồng loạt, dẫn đến phơi sấy – là khâu sợ nhất của nông dân. Nông dân bị o ép, mất thế chính là ở khâu phơi sấy này, đến mức giá nào cũng phải bán cho thương lái vì không thể để lúa chất đống vài ngày được. Mình thương nông dân thiệt lòng thì nông dân thương lại mình liền thôi.”). Chính phủ lại vừa có Nghị định về kinh doanh gạo, có điều kiện bắt buộc các doanh nghiệp phải có kho chứa, máy sấy, máy xay xát thì cái công đoạn bảo đảm số lượng và chất lượng hạt thóc sau thu hoạch của người nông dân ngày càng tốt hơn, lợi nhuận cao hơn, giúp người nông dân chuyên tâm hơn cho cánh đồng của mình. Về mặt xã hội, ông Bổng nhấn mạnh cái ý nghĩa nhân văn của mô hình “là tạo dựng nên cánh đồng lớn nhưng không dẫn đến tích tụ đất đai, không ép người nông dân phải rời khỏi mảnh ruộng nhà mình để trở thành người làm thuê, cấy mướn. Sẽ có nhiều nông dân nhỏ trên cánh đồng lớn được bình đẳng về ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cho quy trình sản xuất; được biết rõ lợi nhuận từ mảnh ruộng nhà mình sau mỗi vụ gieo trồng…”.
Từ diễn đàn hội nghị, ông Lê Quốc Phong- TGĐ Công ty CP phân bón Bình Điền sau khi cám ơn lãnh đạo bộ và các địa phương đã cho phép Cty tham gia mô hình. Cty đã và sẽ tiếp tục tham gia với tinh thần đồng hành và sẻ chia tích cực nhất. Vì lợi ích cao nhất của người nông dân; vì sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp nước nhà. Tới đây Cty sẽ tổ chức đưa 60 nông dân sản xuất giỏi tại các tỉnh thành Nam bộ đi tham quan, học tập kinh nghiệm tại Viện lúa quốc tế ở Philippin. Đây là một tin thật vui.
Trần Đình Thế.